Bài 7. Thu thập dữ liệu định tính
Sau khi đọc xong bài này, bạn sẽ có thể:
|
1. Các bước trong quá trình thu thập dữ liệu định tính
Có năm bước tuyến tính có liên quan với nhau trong quá trình thu thập dữ liệu định tính. Bước đầu tiên là để xác định những người tham gia và địa điểm, và để tham gia vào lấy mẫu sẽ giúp bạn hiểu rõ nhất về hiện tượng trọng tâm và câu hỏi nghiên cứu mà bạn đang hỏi. Thứ hai, bước tiếp theo là nhận được quyền truy cập vào các cá nhân và địa điểm. Thứ ba, bạn cần xem xét loại thông tin nào sẽ trả lời tốt nhất cho các câu hỏi nghiên cứu của bạn. Thứ tư, bạn cần thiết kế các biểu mẫu hoặc công cụ đo lường để thu thập và ghi lại thông tin. Cuối cùng và thứ năm, bạn cần quản lý việc thu thập dữ liệu với sự chú ý đặc biệt đến các vấn đề đạo đức tiềm ẩn có thể phát sinh.
Một số khác biệt cơ bản giữa thu thập dữ liệu định lượng và định tính (Creswell, 2002):
- Trong nghiên cứu định lượng, chúng ta xác định một cách có hệ thống những người tham gia và địa điểm của chúng ta thông qua việc lấy mẫu ngẫu nhiên; trong nghiên cứu định tính, chúng ta xác định những người tham gia và địa điểm của mình trên cơ sở lấy mẫu có mục đích, dựa trên những địa điểm và những người có thể giúp chúng ta hiểu rõ nhất về hiện tượng trọng tâm của mình.
- Trong cả nghiên cứu định lượng và định tính, chúng ta cần có quyền để bắt đầu nghiên cứu của mình, nhưng trong nghiên cứu định tính, chúng ta cần quyền truy cập nhiều hơn vào trang web vì chúng ta thường đến trang web và phỏng vấn mọi người hoặc quan sát họ. Quá trình này đòi hỏi mức độ tham gia của địa điểm nhiều hơn so với quá trình nghiên cứu định lượng.
- Trong cả hai cách tiếp cận, chúng ta thu thập dữ liệu như phỏng vấn, quan sát và tài liệu. Trong nghiên cứu định tính, cách tiếp cận của chúng ta dựa trên các cuộc phỏng vấn hoặc quan sát chung để chúng ta không hạn chế quan điểm của những người tham gia. Chúng ta sẽ không sử dụng công cụ của người khác như trong nghiên cứu định lượng và thu thập thông tin đóng; thay vào đó, chúng ta sẽ thu thập dữ liệu bằng một số câu hỏi mở mà chúng ta thiết kế.
- Trong cả hai cách tiếp cận, chúng ta cần ghi lại thông tin do những người tham gia cung cấp. Thay vì sử dụng các công cụ được thiết kế sẵn từ người khác hoặc các công cụ do chúng tôi thiết kế, trong nghiên cứu định tính, chúng ta sẽ ghi lại thông tin về các biểu mẫu tự thiết kế giúp chúng tôi tổ chức thông tin do những người tham gia báo cáo cho từng câu hỏi.
- – Chúng ta sẽ quản lý thủ tục thu thập dữ liệu định tính nhạy cảm với những thách thức và vấn đề đạo đức của việc thu thập thông tin trực tiếp và thường xuyên tại nhà hoặc nơi làm việc của mọi người. Nghiên cứu con người trong môi trường của chính họ tạo ra những thách thức đối với nhà nghiên cứu định tính mà có thể không có trong nghiên cứu định lượng khi các nhà điều tra gửi các bảng câu hỏi ẩn danh hoặc đưa các cá nhân vào phòng thí nghiệm thực nghiệm.
2. Tiếp cận lấy mẫu cho lựa chọn người tham gia và địa điểm
Trong điều tra định tính, mục đích không phải là khái quát hóa cho một dân số mà là để phát triển sự khám phá sâu sắc về một hiện tượng trung tâm, cung cấp tiếng nói cho những cá nhân mà có thể không được nghe thấy. Vì vậy, để hiểu rõ nhất về hiện tượng này, nhà nghiên cứu định tính có chủ đích hay cố ý lựa chọn các cá nhân và địa điểm. Đó là sự khác biệt giữa “lấy mẫu ngẫu nhiên” (random sampling) định lượng và “lấy mẫu có mục đích” (purposeful sampling).
2.1. Lấy mẫu có mục đích (purposeful sampling)
Các nhà nghiên cứu chủ ý chọn các cá nhân và địa điểm để tìm hiểu hoặc hiểu về hiện tượng trung tâm. Tiêu chuẩn được sử dụng để chọn người tham gia và địa điểm là liệu họ có “thông tin phong phú” hay không. Lấy mẫu có mục đích áp dụng cho cả cá nhân và địa điểm (ví dụ, một trường trung học).
Các chiến lược lấy mẫu được trình bày trong Hình 1 dưới đây:
Hình 1: Chiến lược lấy mẫu định tính
– Lấy mẫu biến thể tối đa (Maximal Variation Sampling): Một đặc điểm của nghiên cứu định tính là đưa ra nhiều quan điểm của các cá nhân để thể hiện sự phức tạp của thế giới chúng ta. Lấy mẫu biến thiên tối đa là một chiến lược lấy mẫu có mục đích, trong đó nhà nghiên cứu lấy mẫu các trường hợp hoặc các cá nhân khác nhau về một số đặc điểm (ví dụ, các nhóm tuổi khác nhau, dân tộc). Thủ tục này yêu cầu bạn xác định đặc điểm và sau đó tìm các địa điểm hoặc cá nhân hiển thị các kích thước khác nhau của đặc điểm đó.
– Lấy mẫu trường hợp cực đoan (Extreme Case Sampling): Đôi khi bạn quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu về một trường hợp đặc biệt rắc rối hoặc đáng kinh ngạc hoặc một trường hợp đáng chú ý về sự thành công hay thất bại của nó. Lấy mẫu trường hợp cực đoan là một hình thức lấy mẫu có mục đích, trong đó bạn nghiên cứu một trường hợp ngoại lệ hoặc một trường hợp hiển thị các đặc điểm cực đoan.
– Lấy mẫu điển hình (Typical Sampling): Một số câu hỏi, “Thế nào là bình thường?” hoặc “Điển hình là gì?” Lấy mẫu điển hình là hình thức lấy mẫu có mục đích, trong đó nhà nghiên cứu nghiên cứu một người hoặc địa điểm “điển hình” đối với những người không quen thuộc với tình huống đó. Bạn có thể nghiên cứu một giáo viên điển hình tại một trường tiểu học tại miền núi cao vì cá nhân đó đã làm việc tại trường 20 năm để tìm hiểu về văn hóa giảng dạy.
– Lấy mẫu lý thuyết hoặc khái niệm (Theory or Concept Sampling): Nhà nghiên cứu lấy mẫu các cá nhân hoặc địa điểm vì chúng có thể giúp nhà nghiên cứu tạo ra hoặc khám phá một lý thuyết hoặc các khái niệm cụ thể trong lý thuyết. Để sử dụng thủ tục này, bạn cần hiểu rõ về các khái niệm hoặc các lí thuyết lớn hơn được mong đợi sẽ nổi lên trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ, bạn đã chọn năm địa điểm nghiên cứu có kinh nghiệm đào tạo từ xa vì nghiên cứu về chúng có thể giúp tạo ra một lý thuyết về thái độ của sinh viên đối với đào tạo từ xa.
– Lấy mẫu đồng nhất (Homogeneous Sampling): Bạn có thể chọn các địa điểm hoặc mọi người nhất định vì họ có đặc điểm tương tự. Nhà nghiên cứu có mục đích lấy mẫu các cá nhân hoặc địa điểm dựa trên tư cách thành viên trong một nhóm con có các đặc điểm xác định. Để sử dụng quy trình này, bạn cần xác định các đặc điểm và tìm các cá nhân hoặc địa điểm sở hữu nó.
– Lấy mẫu bạo kích (Critical Sampling): Đôi khi các cá nhân hoặc địa điểm nghiên cứu đại diện cho hiện tượng trung tâm theo nghĩa kịch tính (dramatic). Nó là một trường hợp khác thường và nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu nhiều về hiện tượng. Ví dụ, bạn nghiên cứu về bạo lực ở tuổi vị thành niên ở một trường trung học, nơi một học sinh dùng hung khí đe dọa một giáo viên.
– Lấy mẫu cơ hội (Opportunistic Sampling): Sau khi thu thập dữ liệu bắt đầu, bạn có thể thấy rằng bạn cần thu thập thông tin mới để trả lời tốt nhất các câu hỏi nghiên cứu của mình. Lấy mẫu cơ hội là để tận dụng các sự kiện đang diễn ra sẽ giúp trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Trong quá trình này, mẫu sẽ nổi lên trong quá trình điều tra. Các nhà nghiên cứu cần phải thận trọng khi tham gia vào hình thức lấy mẫu này vì nó có thể làm chệch hướng sự chú ý khỏi mục tiêu ban đầu của nghiên cứu. Tuy nhiên, nó nắm bắt được bản chất đang phát triển hoặc mới nổi của nghiên cứu định tính và có thể dẫn đến những ý tưởng mới lạ và những phát hiện đáng ngạc nhiên. Ví dụ, bắt đầu quá trình nghiên cứu, bạn lấy mẫu biến thể tối đa của các sinh viên nữ đang mang thai khác nhau ở một trường đại học. Trong quá trình nghiên cứu, bạn tìm thấy một sinh viên nữ đang mang thai và dự định tiếp tục học tập không bao lưu học tập sau khi sinh. Điều này sẽ cung cấp những hiểu biết mới về việc cân bằng giữa con cái và đi học. Bạn sẽ nghiên cứu hoạt động của cô ấy trong lúc mang thai và những tháng sau sinh.
– Lấy mẫu quả cầu tuyết (Snowball Sampling): Trong một số tình huống nghiên cứu nhất định, bạn có thể không biết những người tốt nhất để nghiên cứu vì không quen thuộc với chủ đề hoặc sự phức tạp của các sự kiện. Như trong nghiên cứu định lượng, lấy mẫu quả cầu tuyết định tính là một hình thức lấy mẫu có mục đích thường tiến hành sau khi một nghiên cứu bắt đầu và xảy ra khi nhà nghiên cứu yêu cầu những người tham gia giới thiệu các cá nhân khác được lấy mẫu. Các nhà nghiên cứu có thể đưa ra yêu cầu này như một câu hỏi trong một cuộc phỏng vấn hoặc thông qua các cuộc trò chuyện thân mật với các cá nhân tại một địa điểm nghiên cứu.
– Lấy mẫu xác nhận và không xác nhận (Confirming/ Disconfirming Sampling): Lấy mẫu xác nhận và không xác nhận là một chiến lược có mục đích được sử dụng trong quá trình nghiên cứu để theo dõi các trường hợp cụ thể nhằm kiểm tra hoặc khám phá các phát hiện cụ thể hơn nữa.
Bạn có thể lựa chọn từ một đến một số chiến lược lấy mẫu ở trên. Các chiến lược này được phân biệt dựa trên việc chúng được sử dụng trước khi bắt đầu thu thập dữ liệu hay sau khi thu thập dữ liệu đã bắt đầu (một cách tiếp cận phù hợp với một thiết kế mới nổi). Tất cả các chiến lược áp dụng cho việc lấy mẫu một lần hoặc nhiều lần trong quá trình nghiên cứu và bạn có thể sử dụng chúng để lấy mẫu từ các cá nhân, nhóm hoặc toàn bộ tổ chức và địa điểm.
2.2. Kích thước mẫu hoặc số lượng địa điểm
Số lượng người và địa điểm được lấy mẫu thay đổi theo từng nghiên cứu định tính. Dưới đây là một số hướng dẫn chung (Creswell, 2002).
- Một vài cá nhân hoặc một vài trường hợp là điển hình trong nghiên cứu định tính. Điều này là do khả năng chung của một nhà nghiên cứu trong việc cung cấp bức tranh chuyên sâu giảm đi khi có thêm từng cá nhân hoặc địa điểm mới. Một mục tiêu của nghiên cứu định tính là trình bày mức độ phức tạp của một địa điểm hoặc thông tin do các cá nhân cung cấp.
- Trong một số trường hợp, bạn có thể nghiên cứu một cá nhân hoặc một địa điểm. Trong các trường hợp khác, con số có thể là lớn hơn, có thể đến 30 hoặc 40. Do nhu cầu báo cáo chi tiết về từng cá nhân hoặc địa điểm, số lượng trường hợp lớn hơn có thể trở nên khó sử dụng và dẫn đến các quan điểm hời hợt. Hơn nữa, việc thu thập dữ liệu định tính và phân tích cần thời gian đáng kể và việc bổ sung mỗi cá nhân hoặc địa điểm chỉ kéo dài thời gian đó.
3. Sự cho phép cần thiết trong nghiên cứu định lượng
Tương tự như nghiên cứu định lượng, có được quyền truy cập vào địa điểm hoặc (các) cá nhân trong cuộc điều tra định tính liên quan đến việc xin phép ở các cấp độ khác nhau, chẳng hạn như tổ chức, cá nhân và hội đồng/ nhà quản lí trường học. Điều quan trọng đặc biệt là đạt được sự phê duyệt của hội đồng/ nhà quản lí trường học và định vị các cá nhân tại một địa điểm để thu thập dữ liệu định tính. Vì việc thu thập dữ liệu định tính bao gồm các khoảng thời gian dài thu thập thông tin liên quan trực tiếp đến mọi người và ghi lại các quan điểm cá nhân chi tiết từ các cá nhân, bạn sẽ cần cung cấp mô tả chi tiết về các thủ tục của mình cho hội đồng nhà trường. Chi tiết này là cần thiết vì hội đồng nhà trường có thể không quen với cách tiếp cận định tính đối với nghiên cứu giáo dục và vì bạn sẽ dành thời gian ở nhà của mọi người, nơi làm việc hoặc địa điểm mà bạn thu thập dữ liệu.
4. Xác định các loại dữ liệu định tính sẽ thu thập
Một khía cạnh khác của việc thu thập dữ liệu định tính là xác định các loại dữ liệu sẽ giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của bạn. Các dữ liệu định tính này có thể đến từ bốn loại cụ thể như: quan sát; phỏng vấn và bảng câu hỏi; các tài liệu; vật liệu nghe nhìn.
4.1. Quan sát (Observations)
Khi các nhà giáo dục nghĩ về nghiên cứu định tính, họ thường nghĩ đến quá trình thu thập dữ liệu quan sát trong một môi trường trường học cụ thể.
Quan sát là quá trình thu thập thông tin mở, trực tiếp bằng cách quan sát mọi người và địa điểm tại một nơi nghiên cứu. Các lợi thế của quan sát là cho phép cơ hội ghi lại thông tin khi nó xảy ra trong môi trường, nghiên cứu hành vi thực tế và nghiên cứu những cá nhân gặp khó khăn trong việc diễn đạt ý tưởng của họ (ví dụ: trẻ em mẫu giáo). Một số nhược điểm của việc quan sát là bạn sẽ bị giới hạn trong những địa điểm và tình huống mà bạn có thể truy cập, và trong những địa điểm đó, bạn có thể gặp khó khăn trong việc phát triển mối quan hệ với các cá nhân.
4.1.1. Các vai trò của quan sát
– Vai trò của một quan sát viên tham gia: Để thực sự tìm hiểu về một tình huống, bạn có thể tham gia vào các hoạt động tại địa điểm nghiên cứu. Là một người tham gia, bạn đảm nhận vai trò của một người quan sát “bên trong” người thực sự tham gia vào các hoạt động tại địa điểm nghiên cứu. Đồng thời bạn đang tham gia các hoạt động, bạn ghi lại thông tin. Vai trò này yêu cầu xin phép để tham gia vào các hoạt động và đảm nhận một vai trò thoải mái là người quan sát trong bối cảnh. Rất khó để ghi chép trong khi tham gia, và bạn có thể cần phải đợi để viết ra các quan sát cho đến khi bạn rời khỏi địa điểm nghiên cứu.
– Vai trò của một quan sát viên không tham gia: Trong một số tình huống, bạn có thể không đủ quen thuộc với địa điểm và những người tham gia vào các hoạt động. Quan sát viên không tham gia là quan sát viên đến thăm một địa điểm và ghi lại các ghi chú mà không tham gia vào các hoạt động của những người tham gia. Người quan sát không tham gia là “người ngoài cuộc” ngồi ở ngoại vi hoặc một nơi thuận lợi nào đó (ví dụ: phía sau lớp học) để xem và ghi lại hiện tượng đang nghiên cứu. Tuy nhiên, bằng cách không tham gia tích cực, bạn sẽ loại bỏ bản thân khỏi những trải nghiệm thực tế và những quan sát bạn thực hiện có thể không cụ thể như khi bạn đã tham gia vào các hoạt động.
– Thay đổi vai trò quan sát: Thay đổi vai trò quan sát là vai trò mà các nhà nghiên cứu thích nghi vai trò của họ với tình huống. Ví dụ, trước tiên, bạn có thể vào một địa điểm và quan sát như một “người không tham gia” trong giai đoạn đầu của nghiên cứu. Sau đó, bạn từ từ tham gia với tư cách là một người tham gia. Đôi khi điều ngược lại xảy ra và một người tham gia trở thành người không tham gia. Tham gia vào cả hai vai trò cho phép bạn tham gia một cách chủ quan vào bối cảnh cũng như nhìn nhận bối cảnh một cách khách quan hơn.
Tóm lại, người hỏi định tính sẽ quyết định một vai trò để tham gia vào quá trình quan sát.
4.1.2. Quá trình quan sát
Quá trình chung để thực hiện một quan sát bao gồm các bước (Creswell, 2002):
- Chọn một địa điểm để quan sát mà có thể giúp bạn hiểu rõ nhất về hiện tượng trung tâm. Có được các quyền cần thiết cần thiết để truy cập vào địa điểm.
- Hãy tiến hành quan sát ngắn gọn lúc đầu, vì bạn có thể sẽ bị choáng ngợp với tất cả các hoạt động đang diễn ra. Mục nhập chậm này giúp xây dựng mối quan hệ với các cá nhân tại địa điểm và giúp bạn đồng hóa lượng lớn thông tin.
- Tại hiện trường, xác định ai hoặc cái gì cần quan sát, quan sát khi nào và quan sát trong bao lâu. Người phụ trách có thể cung cấp hướng dẫn khi bạn đưa ra các quyết định này.
- Chọn từ các vai trò của người tham gia hoặc không tham gia trong một vài lần quan sát đầu tiên của bạn. Cân nhắc xem liệu việc thay đổi vai trò trong quá trình này có thuận lợi để tìm hiểu tốt nhất về các cá nhân hoặc điểm điểm hay không.
- Tiến hành nhiều lần quan sát theo thời gian để hiểu rõ nhất về địa điểm và các cá nhân. Đầu tiên hãy tham gia vào việc quan sát rộng, chú ý đến bối cảnh chung của các hoạt động và sự kiện. Khi bạn đã quen với bối cảnh này, bạn có thể bắt đầu thu hẹp các quan sát của mình thành các khía cạnh cụ thể.
- Thiết kế một số phương tiện để ghi chép các ghi chú trong một cuộc quan sát. Dữ liệu được ghi lại trong một lần quan sát được gọi là ghi chú hiện trường (fieldnotes). Các ghi chú hiện trường là văn bản (từ) được nhà nghiên cứu ghi lại trong quá trình quan sát trong một nghiên cứu định tính.
- Cân nhắc những thông tin bạn sẽ ghi lại trong một cuộc quan sát. Ví dụ, khi quan sát một lớp học, bạn có thể ghi lại các hoạt động của giáo viên, học sinh, tương tác giữa học sinh và giáo viên, và các cuộc trò chuyện giữa học sinh với học sinh.
- Ghi lại các chú thích hiện trường mô tả và phản ánh. Chú thích hiện trường mô tả ghi lại mô tả về các sự kiện, hoạt động và con người. Chú thích hiện trường phản ánh ghi lại những suy nghĩ cá nhân mà các nhà nghiên cứu có liên quan đến những hiểu biết sâu sắc, linh cảm của họ hoặc những ý tưởng hoặc chủ đề rộng rãi xuất hiện trong quá trình quan sát (ví dụ: cảm nhận của bạn về địa điểm, con người và tình huống).
- Làm cho bản thân được biết đến, nhưng không phô trương. Trong quá trình quan sát, hãy được ai đó giới thiệu nếu bạn là “người ngoài cuộc” hoặc người mới tham gia vào bối cảnh hoặc mọi người. Hãy thụ động, thân thiện và tôn trọng mọi người và địa điểm.
- Sau khi quan sát, hãy từ từ rút khỏi địa điểm. Cảm ơn những người tham gia và thông báo cho họ về việc sử dụng dữ liệu và sự sẵn có của bản tóm tắt kết quả khi bạn hoàn thành nghiên cứu.
4.2. Phỏng vấn (Interviews)
Không kém phần phổ biến đối với quan sát trong nghiên cứu định tính là phỏng vấn. Một cuộc phỏng vấn định tính xảy ra khi các nhà nghiên cứu hỏi một hoặc nhiều người tham gia những câu hỏi chung, kết thúc mở và ghi lại câu trả lời của họ. Sau đó, nhà nghiên cứu sao chép và nhập dữ liệu vào máy tính để phân tích.
Một số ưu điểm của phỏng vấn là chúng cung cấp thông tin hữu ích khi bạn không thể quan sát trực tiếp người tham gia và chúng cho phép người tham gia mô tả thông tin cá nhân chi tiết. So với người quan sát, người phỏng vấn cũng có khả năng kiểm soát tốt hơn các loại thông tin nhận được, bởi vì người phỏng vấn có thể đặt những câu hỏi cụ thể để khơi gợi thông tin này.
Một số nhược điểm là phỏng vấn chỉ cung cấp thông tin được “lọc” qua quan điểm của người phỏng vấn (tức là nhà nghiên cứu tóm tắt quan điểm của người tham gia trong báo cáo nghiên cứu). Ngoài ra, tương tự như các quan sát, dữ liệu phỏng vấn có thể lừa bịp và cung cấp quan điểm mà người được phỏng vấn muốn nhà nghiên cứu nghe. Một bất lợi khác là sự hiện diện của nhà nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến cách người được phỏng vấn trả lời. Câu trả lời của người được phỏng vấn cũng có thể không rõ ràng. Ngoài ra, bạn cần tổ chức thiết bị ghi âm (nếu được sử dụng) trước cuộc phỏng vấn. Thêm nữa, bạn cần dành sự chú ý với người tham gia bằng các nghệ thuật giao tiếp, xử lý cảm xúc bộc phát và sử dụng kĩ thuật phá băng để khuyến khích các cá nhân nói chuyện. Do đó, các nhà nghiên cứu thiếu kinh nghiệm bày tỏ sự bối dối về sự khó khăn khác nhau của việc thực hiện các cuộc phỏng vấn.
4.2.1. Các loại phỏng vấn và các câu hỏi mở trong bảng hỏi
Một khi bạn quyết định thu thập các cuộc phỏng vấn định tính, tiếp theo bạn xem xét hình thức phỏng vấn nào sẽ giúp bạn hiểu rõ nhất về hiện tượng trung tâm và trả lời các câu hỏi trong nghiên cứu của bạn.
– Phỏng vấn một với một (One-on-One Interviews): Một cách tiếp cận phổ biến trong nghiên cứu giáo dục, phỏng vấn một với một là một quá trình thu thập dữ liệu trong đó nhà nghiên cứu đặt câu hỏi và ghi lại câu trả lời của chỉ một người tham gia trong nghiên cứu tại một thời điểm. Phỏng vấn một với một là lý tưởng để phỏng vấn những người tham gia phỏng vấn không ngại nói, nói rõ ràng và có thể chia sẻ ý kiến một cách thoải mái.
– Phỏng vấn nhóm tập trung (Focus Group Interviews): Các nhóm tập trung có thể được sử dụng để thu thập sự hiểu biết được chia sẻ từ một số cá nhân cũng như nhận được quan điểm từ những người cụ thể. Phỏng vấn nhóm tập trung là quá trình thu thập dữ liệu thông qua các cuộc phỏng vấn với một nhóm người, thường là bốn đến sáu người. Nhà nghiên cứu hỏi một số ít câu hỏi chung và gợi ra câu trả lời từ tất cả các cá nhân trong nhóm. Các nhóm tập trung có lợi khi sự tương tác giữa những người được phỏng vấn có thể sẽ mang lại thông tin tốt nhất và khi những người được phỏng vấn tương đồng và hợp tác với nhau. Chúng cũng hữu ích khi thời gian thu thập thông tin bị hạn chế. Khi thực hiện một cuộc phỏng vấn nhóm tập trung, hãy khuyến khích tất cả những người tham gia nói chuyện và thay phiên nhau nói chuyện. Một nhóm tập trung có thể là một thách thức đối với người phỏng vấn thiếu khả năng kiểm soát cuộc thảo luận phỏng vấn. Ngoài ra, khi các nhóm tập trung được ghi âm thanh, người phiên âm có thể gặp khó khăn trong việc phân biệt giọng nói của các cá nhân trong nhóm. Một vấn đề khác khi thực hiện phỏng vấn nhóm tập trung là nhà nghiên cứu thường gặp khó khăn trong việc ghi chép vì quá nhiều việc đang xảy ra.
– Phỏng vấn qua điện thoại (Telephone Interviews): Bạn có thể không thể tập hợp các nhóm cá nhân để phỏng vấn hoặc đến thăm trực tiếp với các cá nhân đơn lẻ. Những người tham gia nghiên cứu có thể bị phân tán về mặt địa lý và không thể đến địa điểm trung tâm để phỏng vấn. Trong tình huống này, bạn có thể tiến hành phỏng vấn qua điện thoại. Thực hiện một cuộc phỏng vấn qua điện thoại là quá trình thu thập dữ liệu bằng cách sử dụng điện thoại và hỏi một số câu hỏi chung chung. Một cuộc phỏng vấn qua điện thoại yêu cầu nhà nghiên cứu sử dụng chế độ ghi âm để ghi lại cuộc phỏng vấn rõ ràng. Một hạn chế của kiểu phỏng vấn này là người nghiên cứu không được tiếp xúc trực tiếp với người tham gia. Điều này gây ra việc giao tiếp hạn chế có thể ảnh hưởng đến khả năng của nhà nghiên cứu trong việc hiểu nhận thức của người được phỏng vấn về hiện tượng. Ngoài ra, quá trình này có thể liên quan đến chi phí đáng kể cho chi phí điện thoại cần đưa vào dự toán nghiên cứu.
– Phỏng vấn qua thư điện tử (Email Interviews): Phỏng vấn qua e-mail bao gồm việc thu thập dữ liệu mở thông qua các cuộc phỏng vấn với các cá nhân sử dụng máy tính và Internet để thực hiện việc này. Nếu bạn có thể có được danh sách hoặc địa chỉ e-mail, hình thức phỏng vấn này cung cấp khả năng tiếp cận nhanh chóng với số lượng lớn người và cơ sở dữ liệu văn bản phong phú, chi tiết để phân tích định tính. Nó cũng có thể thúc đẩy một cuộc trò chuyện giữa bạn với tư cách là nhà nghiên cứu và những người tham gia, để thông qua các cuộc trò chuyện tiếp theo, bạn có thể mở rộng hiểu biết của mình về chủ đề hoặc hiện tượng trung tâm đang được nghiên cứu. Tuy nhiên, phỏng vấn qua e-mail nảy sinh các vấn đề đạo đức phức tạp, chẳng hạn như liệu bạn có được phép cho các cá nhân tham gia vào cuộc phỏng vấn của mình hay không và liệu bạn có bảo vệ quyền riêng tư của các câu trả lời hay không. Ngoài ra, trong một số trường hợp, có thể khó có được danh sách tốt các địa chỉ e-mail hiện tại hoặc tên của các cá nhân phù hợp để trả lời câu hỏi của bạn. Bất chấp những thiếu sót tiềm ẩn này, phỏng vấn qua e-mail như một hình thức thu thập dữ liệu có thể sẽ tăng lên do công nghệ ngày càng mở rộng.
– Câu hỏi mở trong bảng hỏi (Open-Ended Questions on Questionnaires): Trên bảng câu hỏi, bạn có thể hỏi một số câu hỏi đã kết thúc đóng và một số câu hỏi còn lại kết thúc mở. Ưu điểm của loại câu hỏi này là các câu trả lời kết thúc đóng được xác định trước của bạn có thể tạo ra thông tin hữu ích để hỗ trợ các lý thuyết và khái niệm trong tài liệu. Tuy nhiên, câu trả lời kết thúc mở cho phép bạn khám phá lý do cho câu trả lời kết thúc đóng và xác định bất kỳ nhận xét nào mà mọi người có thể có ngoài câu trả lời cho câu hỏi kết thúc. Hạn chế của phương pháp này là bạn sẽ có nhiều câu trả lời – một số câu trả lời ngắn và một số câu trả lời dài để phân tích. Ngoài ra, các câu trả lời được tách biệt khỏi bối cảnh mà mọi người làm việc, vui chơi và tương tác. Điều này có nghĩa là các câu trả lời có thể không đại diện cho một cơ sở dữ liệu được phát triển đầy đủ với chi tiết phong phú như thường được thu thập trong nghiên cứu định tính. Để phân tích các câu trả lời kết thúc mở, các nhà nghiên cứu định tính tìm kiếm các chủ đề trùng lặp trong dữ liệu kết thúc mở và một số nhà nghiên cứu đếm số lượng chủ đề hoặc số lần mà những người tham gia đề cập đến chủ đề.
4.2.2. Tiến hành phỏng vấn
Trong tất cả các hình thức phỏng vấn khác nhau, một số bước chung liên quan đến việc thực hiện phỏng vấn hoặc xây dựng bảng hỏi mở (Creswell, 2002):
- Xác định đối tượng phỏng vấn. Sử dụng một trong các chiến lược lấy mẫu có mục đích phù hợp.
- Xác định hình thức phỏng vấn bạn sẽ sử dụng. Chọn một trong những cho phép bạn tìm hiểu tốt nhất quan điểm của những người tham gia và trả lời từng câu hỏi nghiên cứu.
- Trong cuộc phỏng vấn, hãy ghi âm các câu hỏi và câu trả lời. Điều này sẽ cung cấp cho bạn một bản ghi chính xác của cuộc trò chuyện.
- Ghi chép ngắn gọn trong cuộc phỏng vấn. Mặc dù việc ghi âm cuộc phỏng vấn là thông lệ, hãy ghi chú lại trong trường hợp máy ghi âm bị trục trặc.
- Nếu có thể, hãy phỏng vấn tại một địa điểm không bị phân tâm và chọn một bối cảnh thực tế phù hợp với ghi âm. Ví dụ, phòng chờ giáo viên có thể không phải là nơi tốt nhất để phỏng vấn vì tiếng ồn và những gián đoạn có thể xảy ra.
- Nhận được sự đồng ý từ người được phỏng vấn để tham gia nghiên cứu. Trước khi bắt đầu phỏng vấn, hãy truyền đạt cho những người tham gia mục đích của nghiên cứu, thời gian hoàn thành cuộc phỏng vấn, kế hoạch sử dụng kết quả từ cuộc phỏng vấn và sự sẵn có của bản tóm tắt nghiên cứu khi nghiên cứu hoàn thành.
- Có một kế hoạch, nhưng phải linh hoạt. Trong cuộc phỏng vấn, hãy bám sát với các câu hỏi, nhưng đủ linh hoạt để theo dõi cuộc trò chuyện của người được phỏng vấn. Hoàn thành các câu hỏi trong thời gian quy định (nếu có thể) để tôn trọng và lịch sự của người tham gia. Hãy cố gắng là trở thành một người biết lắng nghe.
- Sử dụng thăm dò để có thêm thông tin. Thăm dò là các câu hỏi phụ dưới mỗi câu hỏi mà nhà nghiên cứu yêu cầu để thu thập thêm thông tin. Sử dụng chúng để làm rõ các điểm hoặc để người được phỏng vấn mở rộng ý tưởng.
- Lịch sự và chuyên nghiệp khi cuộc phỏng vấn kết thúc. Hoàn thành cuộc phỏng vấn bằng cách cảm ơn người tham gia, đảm bảo với họ về tính chính xác của các câu trả lời và hỏi xem họ có muốn tóm tắt kết quả của nghiên cứu hay không.
4.3. Tài liệu (Documents)
Một nguồn thông tin có giá trị trong nghiên cứu định tính có thể là các tài liệu. Tài liệu bao gồm các hồ sơ công khai và riêng tư mà các nhà nghiên cứu định tính thu được về một địa điểm hoặc những người tham gia, và chúng có thể bao gồm báo chí, biên bản cuộc họp, nhật ký cá nhân và thư từ. Các nguồn này cung cấp thông tin có giá trị trong việc giúp các nhà nghiên cứu hiểu được các hiện tượng trung tâm trong các nghiên cứu định tính. Chúng đại diện cho các tài liệu công cộng và riêng tư. Ví dụ về tài liệu công cộng là biên bản cuộc họp, bản ghi nhớ chính thức, hồ sơ trong phạm vi công cộng và tài liệu lưu trữ trong thư viện. Tài liệu cá nhân bao gồm nhật ký cá nhân, thư từ, ghi chú cá nhân. Các tài liệu như email, trang web có thể minh họa cho cả tài liệu công khai và riêng tư, ngày càng gia tăng nhanh chóng.
Các tài liệu cung cấp lợi thế về ngôn ngữ và lời nói của những người tham gia. Chúng cũng sẵn sàng để phân tích mà không cần phiên mã cần thiết với dữ liệu quan sát hoặc phỏng vấn. Về mặt tiêu cực, các tài liệu đôi khi rất khó tìm và lấy được. Thông tin có thể không có sẵn, có thể nằm ở các kho lưu trữ xa, đòi hỏi người nghiên cứu phải đi lại, điều này mất thời gian và có thể tốn kém. Hơn nữa, các tài liệu có thể không đầy đủ, không xác thực hoặc không chính xác. Trong các tài liệu cá nhân như nhật ký hoặc thư từ, chữ viết tay có thể khó đọc, khiến việc giải mã thông tin trở nên khó khăn.
Không có một thủ tục cứng cho việc thu thập tài liệu, Creswell (2002) đã cung cấp một hướng dẫn hữu ích để thu thập tài liệu trong nghiên cứu định tính:
- Xác định các loại tài liệu có thể cung cấp thông tin hữu ích để trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
- Coi cả tài liệu công khai (ví dụ: biên bản hội đồng trường) và tài liệu riêng tư (ví dụ: nhật ký cá nhân) là nguồn thông tin cho nghiên cứu.
- Khi các tài liệu đã được định vị, hãy xin phép sử dụng chúng từ các cá nhân phụ trách tài liệu.
- Nếu bạn yêu cầu những người tham gia viết nhật ký, hãy cung cấp hướng dẫn cụ thể về thủ tục. Những hướng dẫn này có thể bao gồm những chủ đề và định dạng sẽ sử dụng, độ dài viết nhật ký và tầm quan trọng của việc viết ra những suy nghĩ của họ một cách dễ hiểu.
- Một khi bạn được phép sử dụng tài liệu, hãy kiểm tra chúng về tính chính xác, đầy đủ và hữu ích trong việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu.
- Ghi lại thông tin từ các tài liệu. Quá trình này có thể thực hiện một số hình thức, bao gồm ghi chú về các tài liệu hoặc, scan để tạo tệp văn bản cho mỗi tài liệu.
4.4. Vật liệu nghe – nhìn (Audiovisual Materials)
Tài liệu nghe nhìn bao gồm hình ảnh hoặc âm thanh mà các nhà nghiên cứu thu thập để giúp họ hiểu được hiện tượng trung tâm đang nghiên cứu. Được sử dụng với tần suất ngày càng tăng trong nghiên cứu định tính, hình ảnh hoặc tài liệu trực quan như ảnh chụp, băng video, hình ảnh số.
Lợi thế của việc sử dụng tài liệu trực quan là mọi người dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh vì chúng có sức lan tỏa trong xã hội của chúng ta. Hình ảnh tạo cơ hội cho những người tham gia chia sẻ trực tiếp nhận thức của họ về thực tế. Ví dụ như hình ảnh như băng video và phim cung cấp dữ liệu phong phú về cuộc sống thực khi mọi người hình dung nó.
Một nhược điểm tiềm ẩn của việc sử dụng hình ảnh là chúng khó phân tích vì lượng thông tin phong phú (ví dụ: làm thế nào để bạn hiểu được tất cả các khía cạnh rõ ràng trong 50 bức vẽ của giáo viên dạy môn khoa học về cảm giác trở thành một giáo viên khoa học?). Khi quay video, bạn phải đối mặt với các vấn đề về cái gì nên ghi băng, vị trí đặt camera và sự cần thiết phải nhạy cảm với những người không biết quay phim.
Tài liệu trực quan đang trở nên phổ biến hơn trong nghiên cứu định tính, đặc biệt với những tiến bộ gần đây trong công nghệ. Các bước liên quan đến thu thập tài liệu trực quan gồm:
- Xác định xem tài liệu trực quan nào có thể cung cấp thông tin để trả lời các câu hỏi nghiên cứu và cách tài liệu đó có thể tăng cường các dạng dữ liệu hiện có, chẳng hạn như phỏng vấn và quan sát.
- Xác định tài liệu trực quan có sẵn và xin phép sử dụng nó. Sự cho phép này có thể yêu cầu tất cả học sinh trong một lớp học, chẳng hạn, phải ký vào các biểu mẫu đồng ý và cha mẹ của họ cũng ký tên.
- Kiểm tra độ chính xác và tính xác thực của tài liệu trực quan nếu bạn không tự ghi lại. Một cách để kiểm tra độ chính xác là liên hệ và phỏng vấn nhiếp ảnh gia hoặc các cá nhân đại diện trong ảnh.
- Thu thập dữ liệu và sắp xếp nó. Bạn có thể quét dữ liệu theo phương pháp scan để dễ dàng lưu trữ và truy xuất.
5. Thủ tục ghi dữ liệu
Quá trình này bao gồm việc ghi lại thông tin thông qua các biểu mẫu nghiên cứu, quản lý việc thu thập dữ liệu để bạn có thể lường trước các vấn đề tiềm ẩn trong việc thu thập dữ liệu và các vấn đề đạo đức có thể ảnh hưởng đến chất lượng của dữ liệu. Các biểu mẫu ghi dữ liệu (Data recording protocols) là các biểu mẫu được thiết kế và sử dụng bởi các nhà nghiên cứu định tính để ghi lại thông tin trong quá trình quan sát và phỏng vấn.
5.1. Biểu mẫu phỏng vấn (Interview Protocol)
Trong khi phỏng vấn, điều quan trọng là phải có một số phương tiện để cấu trúc cuộc phỏng vấn và ghi chép cẩn thận. Như đã đề cập, ghi âm các cuộc phỏng vấn cung cấp một bản ghi chi tiết về cuộc phỏng vấn. Để dự phòng, bạn cần ghi chú trong cuộc phỏng vấn và chuẩn bị sẵn các câu hỏi. Biểu mẫu phỏng vấn là một biểu mẫu do nhà nghiên cứu thiết kế, bao gồm các hướng dẫn về quy trình phỏng vấn, các câu hỏi được hỏi và không gian để ghi chép các câu trả lời từ người được phỏng vấn. Một biểu mẫu phỏng vấn được thiết kế tốt cần (Hình 2):
Hình 2: Một mẫu biểu mẫu phỏng vấn
– Nó chứa một tiêu đề để ghi lại thông tin cần thiết về cuộc phỏng vấn, tuyên bố về mục đích của nghiên cứu, lời nhắc nhở rằng những người tham gia cần ký vào mẫu đồng ý và gợi ý để thực hiện kiểm tra sơ bộ thiết bị ghi âm. Các thông tin khác bao gồm tên tổ chức và nơi làm việc của người được phỏng vấn, trình độ, số năm công tác, ngày – giờ – địa điểm phỏng vấn.
– Sau tiêu đề này là các câu hỏi mở ngắn gọn cho phép người tham gia trả lời một cách linh hoạt tối đa. Câu hỏi đầu tiên có thể là phục vụ cho mục đích phá băng, tạo sự thân thiện.
– Câu câu hỏi cốt lõi từ câu 2 đến câu 4, giải quyết các câu hỏi nghiên cứu chính trong nghiên cứu. Đối với những người mới tham gia nghiên cứu định tính, bạn có thể hỏi nhiều hơn bốn câu hỏi, để giúp khơi gợi nhiều cuộc thảo luận hơn từ những người được phỏng vấn và vượt qua những khoảnh khắc khó xử khi không có ai nói chuyện. Tuy nhiên, bạn càng hỏi nhiều câu hỏi, bạn càng xem xét những gì bạn muốn học hơn là học từ người tham gia.
– Ngoài các câu hỏi này, bạn có thể sử dụng thăm dò để khuyến khích người tham gia làm rõ những gì họ đang nói và thúc giục họ xây dựng ý tưởng của họ.
– Bạn cung cấp khoảng trống giữa các câu hỏi để nhà nghiên cứu có thể ghi chú ngắn gọn về nhận xét của những người được phỏng vấn.
– Cuối cùng, lời kết thúc nhắc nhở bạn cảm ơn những người tham gia và đảm bảo với họ về tính bảo mật của các câu trả lời.
5.2. Biểu mẫu quan sát (Observational Protocol)
Bạn sử dụng một biểu mẫu quan sát để ghi lại thông tin trong quá trình quan sát, giống như khi phỏng vấn. Biểu mẫu này áp dụng cho tất cả các vai trò quan sát được đề cập trước đó. Biểu mẫu quan sát là một biểu mẫu được thiết kế bởi nhà nghiên cứu trước khi thu thập dữ liệu được sử dụng để lấy các ghi chú thực địa trong một cuộc quan sát. Việc thiết kế và phát triển các biểu mẫu quan sát sẽ đảm bảo rằng bạn có một phương tiện có tổ chức để ghi và lưu giữ các chú thích trường quan sát. Hình 3 dưới đây là một biểu mẫu ghi chép.
Hình 3: Biểu mẫu ghi chép quan sát
Các thành phần thường được tìm thấy trên biểu mẫu ghi chép trong một quan sát, gồm:
- Chứa tiêu đề nơi bạn ghi lại thông tin về thời gian, địa điểm, thiết lập và vai trò quan sát của bạn.
- Bạn viết thành hai cột sau tiêu đề, chia trang để ghi chép thành hai loại dữ liệu: mô tả các hoạt động và phản ánh về chủ đề, trích dẫn và kinh nghiệm cá nhân của nhà nghiên cứu.
- Bạn có thể bao gồm mô tả về thứ tự thời gian của các sự kiện. Mô tả này đặc biệt hữu ích nếu người quan sát đang kiểm tra một quá trình hoặc sự kiện.
- Ghi chú phản chiếu (Reflective notes) ghi lại kinh nghiệm của bạn với tư cách là một nhà nghiên cứu, chẳng hạn như linh cảm của bạn về các kết quả và hiểu biết quan trọng hoặc các chủ đề mới nổi để phân tích sau này.
6. Quản lý thu thập dữ liệu
Khi thu thập dữ liệu, các nhà nghiên cứu tham gia vào các nghiên cứu định tính thường phải đối mặt với các vấn đề mà họ cần giải quyết. Họ có thể cần đi đến địa điểm nghiên cứu, ở lại một thời gian đáng kể và đặt câu hỏi chi tiết, các vấn đề đạo đức có thể nảy sinh cần được dự đoán trước.
– Các vấn đề thực địa: Trước khi nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần dự đoán các vấn đề tiềm ẩn có thể phát sinh trong quá trình thu thập dữ liệu. Những vấn đề này bao gồm quyền truy cập vào các vấn đề của địa phương, thực hiện quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu và sử dụng tài liệu nghe nhìn.
– Vấn đề đạo đức: Khi thu thập dữ liệu, những người tham gia có thể được yêu cầu thảo luận về các chi tiết riêng tư về kinh nghiệm sống của họ trong một khoảng thời gian. Điều này đề cập đến một số vấn đề đạo đức cần được dự đoán khi thực hiện nghiên cứu định tính, đồng thời cũng đưa ra các hướng dẫn để thực hiện nghiên cứu định tính. Nó bắt đầu bằng việc xác định một số hướng dẫn về thực hành đạo đức, và sau đó xem xét các vấn đề chính có thể phát sinh, chẳng hạn như thông báo cho người tham gia về mục đích của nghiên cứu, hạn chế các hành vi lừa đảo, chia sẻ thông tin với người tham gia (bao gồm cả vai trò của bạn với tư cách là nhà nghiên cứu) , tôn trọng địa điểm nghiên cứu, có đi có lại, sử dụng các phương pháp phỏng vấn có đạo đức, duy trì tính bảo mật và cộng tác với những người tham gia.
Tài liệu tham khảo
- Creswell, J. W. (2002). Educational research: Planning, conducting, and evaluating quantitative. Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall.
- Lovely Professional University. Methodology of Educational Research and Statistics. Produced & Printed by Laxmi Publications (P) LTD, 2014. No 113, Golden House, Daryaganj, New Delhi-110002 for Lovely Professional University Phagwara
- Johnson, R. B., & Christensen, L. (2019). Educational research: Quantitative, qualitative, and mixed approaches. Sage publications.