Bài 2. Các nguồn kiến thức (Sources of Knowledge)

admin
8726 5 phút đọc
Sau khi đọc xong bài này, bạn sẽ có thể:

  • –  Nêu được các loại hình nghiên cứu tổng quan trong nghiên cứu giáo dục.
  • – Giải thích được bản chất của mỗi loại hình nghiên cứu tổng quát.

Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét những cách chính mà mọi người liên hệ với thế giới và cách họ tạo ra kiến thức. Việc nghiên cứu kiến thức – bao gồm bản chất của nó, cách tiếp thu được hoặc tạo ra nó, cách nó được bảo đảm và các tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá tính đầy đủ của nó – được gọi là nhận thức luận (epistemology). Nhận thức luận đôi khi được gọi là “lý thuyết về kiến thức” (theory of knowledge). Chúng ta có thể     nhóm các nguồn kiến thức thành các khu vực chính trong nhận thức luận.

1. Chủ nghĩa duy lí (Rationalism)

Chủ nghĩa duy lý là ý tưởng triết học cho rằng lập luận (reason) là nguồn chính của kiến thức. Lập luận liên quan đến việc suy nghĩ về điều gì đó và phát triển sự hiểu biết về nó thông qua lý luận (reasoning). Ở dạnh mạnh mẽ của nó, chủ nghĩa duy lý có nghĩa là nhiều sự thật có thể biết được độc lập với quan sát. Ở dạng yếu hơn, chủ nghĩa duy lý chỉ đơn giản đề cập đến việc chúng ta sử dụng lập luận trong việc phát triển những hiểu biết về thế giới. Lập luận diễn dịch (deductive reasoning) và lập luận quy nạp (inductive reasoning) là hai loại lập luận chính.

– Lập luận diễn dịch (hoặc lập luận/ lí luận suy diễn) là quá trình rút ra một kết luận nhất thiết phải đúng nếu các tiền đề là đúng. Ví dụ, tất cả kim loại dẫn điện, do đó, đồng dẫn điện. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng lập luận như thế này phụ thuộc vào tính hợp lệ của tiền đề. Lập luận suy diễn là rất hữu ích khi chúng ta lý luận về mọi thứ trong thế giới của mình, nhưng chúng ta phải luôn đảm bảo rằng các tiền đề của chúng ta là đúng và chúng ta phải sử dụng các hình thức lập luận hợp lệ. Chúng ta cần phải cẩn thận về những gì chúng ta giả định khi đưa ra kết luận của mình.

– Lập luận quy nạp (hoặc lí luận quy nạp) là hình thức lập luận trong đó các tiền đề cung cấp các lý do tốt, nhưng không là lý do thuyết phục để chấp nhận kết luận. Chúng ta thường xuyên tham gia vào lập luận quy nạp trong cuộc sống hàng ngày khi chúng ta quan sát nhiều trường hợp cụ thể của một số hiện tượng và rút ra kết luận về nó. Ví dụ, bạn chắc chắn đã quan sát thấy mặt trời xuất hiện vào mỗi buổi sáng (trừ những ngày nhiều mây). Trên cơ sở quan sát của bạn, bạn có thể cảm thấy thoải mái khi kết luận rằng mặt trời sẽ xuất hiện trở lại vào ngày mai (nếu trời không có mây). Trong trường hợp này, bạn thực sự có khả năng đúng. Nhưng hãy lưu ý rằng, khi bạn sử dụng lập luận quy nạp, bạn đang sử dụng một hình thức lập luận có xác suất. Có nghĩa là, bạn đang nói rõ điều gì có thể xảy ra, không phải điều gì nhất thiết sẽ xảy ra. Bởi vì điều này, bạn đang chấp nhận rủi ro (mặc dù rủi ro rất nhỏ trong trường hợp này) vì quy nạp liên quan đến việc đưa ra kết luận vượt ra ngoài bằng chứng trong các tiền đề (tức là bạn đã từ những thứ được kiểm tra đến chưa được khám phá, từ được quan sát đến chưa được quan sát). Đây không nhất thiết là một vấn đề, nhưng bạn nên biết rằng nó có thể là một vấn đề nếu bạn mong đợi sự chắc chắn trong kết luận của mình. Do đó, lập luận quy nạp là quá trình rút ra một kết luận “có thể” đúng.

Trong lập luận quy nạp, mặc dù điều gì đó có thể đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ, nhưng vẫn có khả năng nó sẽ không xảy ra trong tương lai. Trong ngắn hạn, tương lai có thể không giống với quá khứ. Giả sử rằng mọi con mèo bạn từng thấy đều có một cái đuôi. Sử dụng lập luận quy nạp, bạn có thể dẫn đến kết luận rằng tất cả các con mèo đều có đuôi. Bạn có thể thấy vấn đề ở đây: Một ngày nào đó, bạn có thể bắt gặp một con mèo Manx không có đuôi. Vấn đề là lý luận quy nạp rất hữu ích trong việc giúp chúng ta đưa ra những kết luận, dự đoán và khái quát hữu ích về thế giới; tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta chưa chứng minh được những điều này là đúng. Quy nạp chỉ cung cấp các tuyên bố về xác suất (probability).

2. Chủ nghĩa kinh nghiệm (Empiricism)

Chủ nghĩa kinh nghiệm là ý tưởng cho rằng tất cả kiến ​​thức đều đến từ kinh nghiệm (experience). Chúng ta học bằng cách quan sát, và khi chúng ta quan sát, chúng ta dựa vào tri giác cảm tính (sensory perception) của mình. Mỗi ngày trong cuộc sống, chúng ta nhìn, cảm nhận, nghe, ngửi và nếm để có thể hiểu được môi trường xung quanh. Theo học thuyết triết học của chủ nghĩa kinh nghiệm, những gì chúng ta quan sát bằng giác quan được cho là đúng. Câu nói “Tôi biết chiếc xe màu xanh lam vì tôi đã nhìn thấy nó” là một ví dụ về một tuyên bố thực nghiệm (empirical statement): một tuyên bố dựa trên quan sát (observation), thử nghiệm (experiment) hoặc trải nghiệm (experience). Từ ‘thực nghiệm’ (empirical) biểu thị rằng một tuyên bố có thể được xác minh hoặc bác bỏ bằng quan sát, thử nghiệm hoặc trải nghiệm.

Trong suốt cuộc đời, chúng ta tham gia và tìm hiểu về thế giới xung quanh. Khi chúng ta còn trẻ, gia đình là nguồn kiến thức, thái độ và giá trị quan trọng nhất của chúng ta. Khi chúng ta lớn lên, những người khác và các tổ chức xã hội xung quanh chúng ta – bao gồm đồng nghiệp của chúng ta, tôn giáo của chúng ta, trường học của chúng ta (và thư viện), nền kinh tế của chúng ta, chính phủ của chúng ta và các phương tiện truyền thông khác nhau mà chúng ta tiếp xúc hoặc tìm hiểu – ảnh hưởng đến chúng ta ngày càng nhiều. Chúng ta tìm hiểu phong tục, tín ngưỡng và truyền thống của những người xung quanh chúng tôi. Khi chúng ta tìm hiểu “mọi thứ như thế nào”, chúng ta xây dựng kiến thức và quan điểm cá nhân về thế giới của chúng ta. Theo thời gian, nhiều hành động và niềm tin của chúng ta trở nên tự động và không bị nghi ngờ.

Tài liệu tham khảo

  1. Lovely Professional University. Methodology of Educational Research and Statistics. Produced & Printed by Laxmi Publications (P) LTD, 2014. No 113, Golden House, Daryaganj, New Delhi-110002 for Lovely Professional University Phagwara
  2. Johnson, R. B., & Christensen, L. (2019). Educational research: Quantitative, qualitative, and mixed approaches. Sage publications.

admin

Chịu trách nhiệm học thuật, PGS.TS. Nguyễn Văn Hạnh
Chuyên gia nghiên cứu Khoa học Giáo dục và Phân tích định lượng.

error: Content is protected !!
0
Would love your thoughts, please comment.x
()
x